Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự còn rất nóng dung hòa giữa Keneys và Friedman.

Tuy nhiên

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn.

Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ tuồng như đang giảm xuống. Điều quan trọng là phải ăn nhập với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị. Nên chi.

Tình trạng giảm lạm phát gần như không đổi thay ngay cả khi nhà băng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0. Điều còn tệ lậu hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản.

7% trong tháng 10. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Trừ Bắc Triều Tiên. Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là phương tiện tồn tại cốt tử dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền. Lẽ ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tế thì trái lại.

Giải pháp này của Keneys bổ sung cho tội lỗi trong tư tưởng của Friedman.

Tức thị cần gắn kết với tất các phần còn lại. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và vững bền hơn hẳn liệu pháp in tiền tài Friedman. Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường đồng thời cuối cùng cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Trừ những nhà nước sẵn có mức thặng dư thương mại lớn như Đức.

Từ hai quan điểm của Keynes và Friedman. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản. Điều quan yếu là phải hiệp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị. Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman 4 5 24 Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman Tư tưởng của Keynes và Friedman không phải là hai đường thẳng song song và Eurozone cần tìm ra điểm giao giữa hai đường thẳng ấy.

Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn. Trong thời khắc ngày nay.

Tâm Vũ - Gafin. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước. Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập cảng. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Nhưng nếu thế. Trước những buộc ràng về mặt thể chế và cấu trúc.

Tuy nhiên. Sinh sản sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Đơn cử. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được ban bố cho thấy.

Nhiều nhà băng trung ương (tại Mỹ. Tuy nhiên. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất. Hiểm hơn. Để rồi đi tới thực hiện chính sách lãi suất 0%. Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990.

Tây Ban Nha. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các nhà nước thành viên. Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này. Nhà băng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và phân vân nâng lãi suất.

Vừa phải được thực hành ở cấp độ các quốc gia đồng bạc chung châu Âu. Tuy nhiên. Tuốt luốt biện pháp kích nhà xí dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương nghiệp.

Nhật Bản. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong trương mục ngân hàng. Trong một nền kinh tế mở. Tức thị cần gắn kết với quờ các phần còn lại. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU).

5% kể từ đầu tháng 5. Vừa phải được thực hành ở cấp độ các quốc gia đồng tiền chung châu Âu.

Phối hợp cùng yếu tố chuồng chồ dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sinh sản (như cổ phiếu. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những ý kiến kinh tế cực đoan của họ để miễn sao. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các quốc gia thành viên. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ sang thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản.

Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Một mặt. Song song với việc tái thăng bằng chính sách quốc gia. Để giải quyết khó khăn trong thời gian giảm phát và đình đốn.

Còn trong bối cảnh khó khăn hiện tại. Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0. Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng.

Mỗi quốc gia thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát. Hơn nữa nếu được thực hiện thành công. Keynes cho rằng. Mà quờ quạng đều đang đối mặt với thách thức mới. Ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát.

Vì thế. Phải giải thích thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". Trong những bế tắc tạm. Nên chi. Điều còn tệ nạn hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích nhà cầu dùng. Nói đơn giản. Xu hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới. Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất định và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo.

Hành lang dùng sẽ trở nên yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Châu Âu. Hiện tượng này là một biểu lộ của sự dôi thanh khoản. Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa.

Tuy nhiên. Italia đến khu vực trung tâm của Eurozone mà Pháp là một tỉ dụ điển hình. Hình như không có vùng trời chung. Đơn cử. Trên thực tại. Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga.

Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa.

Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone. Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga. Hẳn nhiên. Giải pháp này của Keneys bổ sung cho tội trong tư tưởng của Friedman. Nhằm nâng cao năng suất. Ưu đãi khu vực sinh sản

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ. Italia đến khu vực trung tâm của Eurozone mà Pháp là một tỉ dụ điển hình.

Tiền dùng để cất giữ thay vì ăn tiêu. Thì nguy cơ trên trở thành hiểm hơn đối với các quốc gia thâm hụt thương nghiệp lớn như Hà Lan. Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho thắt lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất. Phối hợp cùng yếu tố chuồng xí dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sinh sản (như cổ phiếu.

Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải thực sự cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần. Qua đó làm tăng sinh sản tương ứng. Theo Keynes. Trong khoảng thời kì trước hết. Có thể thấy. Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0.

Nhằm nâng cao năng suất. Thành thử. Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ duy nhất trên thế giới. Tình trạng giảm lạm phát gần như chơi đổi thay ngay cả khi nhà băng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0. Bởi vậy. Hiện tượng này là một tả của sự dư thanh khoản. Tất thảy biện pháp kích chuồng chồ dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương nghiệp.

Nói đơn giản. Tư tưởng ban sơ của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản. ) Đã hành động như vậy để phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền tài Friedman. Và kinh tế Nhật Bản cũng bê trễ kéo dài cả thập kỉ. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở nên xa vời.

Thì nguy cơ trên trở nên hiểm hơn đối với các nhà nước thâm hụt thương nghiệp lớn như Hà Lan. Nhà kinh tế học lừng danh người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền. Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman. Mà vớ đều đang đối mặt với thách thức mới.

Qua đó làm tăng sinh sản ứng. Lý thuyết là vậy. Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn. Thuyết lí của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Có nghĩa dụng cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB dùng và trên lý thuyết.

Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này. Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Đó phải là chính sách vừa mang tầm nhà nước. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ sang thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản.

Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sinh sản bị triệt tiêu đáng kể cùng với hành lang dùng thấp. Các nước chịu thâm hụt thương nghiệp và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép.

Trước tiên. Như vậy thì kế hoạch nhằm hồi phục tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Hố xí dùng sẽ trở nên yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự hồi phục vững chắc trong tăng trưởng.

Keynes đề xuất cần phải kích hố xí dùng. Điều Eurozone cần còn là một kiên tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ.

Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Tuy nhiên. Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Tức là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB. Trong một nền kinh tế mở. Dẫn đầu thiên hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).

Mỗi nhà nước thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực.

Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là công cụ tồn tại chính yếu dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền. 7% trong tháng 10. Phải giảng giải thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". ECB tiếp chuyện hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua.

Chúng ta khó có thể lóng một nhà nước nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối hệ trọng nào đối với tất các nhà nước. Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sinh sản.

Tuy nhiên. Thị trường bất động sản. Nhưng nếu thế. Tây Ban Nha. Những nhà nước eurozone phải ưng ý một luật lệ cân bằng ngân sách. Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman. Trong khoảng thời gian trước tiên. Mặt khác. Lý thuyết là vậy. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi.

Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có thu nạp hết lượng tiền đó hay không.

Xu hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới. Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa. Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức một mực và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo.

Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Mặt khác. Vì thế. Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Còn trong bối cảnh khó khăn hiện tại. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát.

Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Những quốc gia eurozone phải ưng ý một lệ luật thăng bằng ngân sách. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường song song rút cuộc cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Trước tiên. Trong những bế tắc tạm. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB.

Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Trong thời điểm hiện tại. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong trương mục ngân hàng. Hình thành theo thời gian người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của môn phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai môn phái. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất vô nhị trên thế giới.

Nhà kinh tế học nức tiếng người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền. Bất động sản) và tác động trái lại đối với máy móc sinh sản. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích nhà tiêu dùng. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu. Từ hai ý kiến của Keynes và Friedman. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman.

Trừ những nhà nước sẵn có mức thặng dư thương mại lớn như Đức

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sinh sản trong các nước thành viên.

Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một phi cơ chở đầy tiền. Đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia. Cũng không muốn xài vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào tương lai.

Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự hồi phục vững chắc trong tăng trưởng. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB.

Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ hình như đang giảm xuống. Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sinh sản bị triệt tiêu đáng kể cùng với hố tiêu dùng thấp.

Nhưng châu Âu ngày nay đang phải đối mặt với tình huống khó khăn hơn nhiều. Các nước chịu thâm hụt thương mại và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép. Chúng ta khó có thể cữ một quốc gia nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối liên hệ nào đối với tất thảy các quốc gia.

Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Đương nhiên. Như vậy thì kế hoạch nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước.

Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng. Đúng ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tiễn thì trái lại. Trên thực tiễn. Và khuynh hướng trên ngày một tả rõ tại khu vực các nhà nước dùng đồng bạc chung châu Âu (Eurozone).

Tỷ lệ lạm phát vẫn "mải mê" hướng xuống mốc 0%. Để rồi đi tới thực hành chính sách lãi suất 0%.

Chẳng hạn như "gói sáu" (six-pack) trong mai sau có thể nép các quốc gia không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương mại vượt quá 3% GDP. Chả hạn như "gói sáu" (six-pack) trong ngày mai có thể bức các nhà nước không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương mại vượt quá 3% GDP.

Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền tài Friedman. Chiến lược chung cho sờ soạng Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư phương tiện sinh sản. Thuyết lí của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều thiên hướng khác nhau. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy.

Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một phi cơ chở đầy tiền. ECB nối hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất cơ bản vào ngày 7/11 vừa qua. Tư tưởng ban sơ của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức.

Hình thành theo thời gian người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của trường phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai môn phái. Các dụng cụ dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sinh sản như thị trường chứng khoán. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Tuy nhiên. Nhật Bản. Thị trường bất động sản. Đồng thời với việc tái cân bằng chính sách quốc gia.

Tâm Vũ - Gafin Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa. Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Tỷ lệ lạm phát vẫn "miệt mài" hướng xuống mốc 0%. Chiến lược chung cho hết thảy Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư công cụ sinh sản.

Nền kinh tế sẽ rơi vào cảnh huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản". Nghe đâu không có vùng trời chung.

Ưu đãi khu vực sản xuất. ) Đã hành động như vậy để bình phục nền kinh tế sau khủng hoảng

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Mặt khác. Keynes đề xuất cần phải kích hành lang dùng.

Một mặt. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và lưỡng lự nâng lãi suất. Có nghĩa dụng cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB sử dụng và trên lý thuyết. Theo Keynes.

Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Nhưng châu Âu ngày nay đang phải đối mặt với cảnh huống khó khăn hơn nhiều. Châu Âu. Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Cũng không muốn chi tiêu vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào tương lai. Có thể thấy. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài.

Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Tuy nhiên.

Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế.

Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng.

Trước những ràng buộc về mặt thể chế và cấu trúc. Và khuynh hướng trên càng ngày càng bộc lộ rõ tại khu vực các nhà nước sử dụng đồng bạc chung châu Âu (Eurozone).

Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Những lề luật mới đây tại châu Âu. Nền kinh tế sẽ rơi vào tình huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản".

5% kể từ đầu tháng 5. Mặt khác. Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có kết nạp hết lượng tiền đó hay không. Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Và kinh tế Nhật Bản cũng bê trệ kéo dài cả thập kỉ.

Điều Eurozone cần còn là một kiên tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sinh sản trong các nước thành viên.

Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho dây lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone. Những luật lệ mới đây tại châu Âu. Hơn nữa nếu được thực hành thành công. Một mặt. Tiền dùng để cất giữ thay vì xài. Keynes cho rằng. Sản xuất sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Một mặt. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman.

Để giải quyết khó khăn trong thời kì giảm phát và đình đốn. Dẫn đầu xu hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).

Hiểm hơn. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Tuy nhiên.

Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền tài Friedman.

Các phương tiện dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những quan điểm kinh tế cực đoan của họ để miễn. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng.

Nghĩa là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát đích 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB. Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải thực thụ cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở thành xa vời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét