Việc phân cấp giám định như vậy dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” khi các ngành, địa phương được thẩm định vắng ĐTM của dự án do chính mình chuẩn y (khoản 2 Điều 18 Nghị định 29/2011)
Thứ ba, theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định 29/2011, việc đối thoại với chủ đầu tư chỉ được thực hành “trong trường hợp cần thiết”, tuy nhiên lại không có chỉ dẫn cụ thể thế nào là trường hợp cần thiết. Tư vấn cộng đồng chỉ dừng lại ở hình thức “ích của ĐTM là hết sức lớn.
UBND cấp tỉnh tổ chức giám định đối với các dự án thuộc thẩm quyền ưng chuẩn của địa phương. Thứ hai, mặc dù khoản 2, Điều 12 và Phụ lục 2. Việc phát triển một cơ chế tư vấn hoàn thiện hơn, đặc biệt là quy trình thông tin, hấp thụ quan điểm và phản hồi những băn khoăn của người dân trong quá trình lập, thẩm định, duyệt y và thực hành ít ĐTM là rất cần thiết.
Do đó, ĐTM cần phải thực hiện ngay từ thời đoạn đầu tiên hình thành ý tưởng về dự án. Nghị định 29/2011/NĐ-CP ngày 18/04/2011 của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường (sau đây gọi là Nghị định 29/2011) thay thế đã có quy định về thời điểm lập vắng ĐTM “phải được tiến hành song song với quá trình lập dự án đầu tư ” (khoản 1 Điều 13).
Điều này sẽ góp phần giảm thiểu những tranh chấp, xung đột tiềm tàng có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án giữa các bên liên tưởng và cộng đồng địa phương bị ảnh hưởng. Ngoài ra, quy định về chi phí lập vắng ĐTM hiện nay không rõ ràng, đốn theo thỏa thuận của đơn vị tư vấn và chủ đầu tư.
Trong nhiều trường hợp, ngôn ngữ của những đại diện này chưa hoàn toàn phản ánh đúng đắn nhất hoài vọng của nhiều thành phần khác nhau trong cộng đồng, đặc biệt là những nhóm yếu thế như những người dân không có đất hoặc người dân tộc thiểu số. Nếu Luật BVMT sửa đổi không có những sửa đổi cơ bản và mạnh mẽ hơn vì đích BVMT như đúng tên gọi của nó thì môi trường sống của tuốt luốt chúng ta vẫn sẽ nối bị suy thoái khi mà sức chịu tải của môi trường đang tiệm cận ngưỡng giới hạn của nó.
Đây là quy trình ngược vì ý nghĩa và tác dụng lớn nhất của ĐTM đối với việc chọn lựa địa điểm của dự án đã bị triệt tiêu.
Ảnh: Dương Văn Thọ Chất lượng của mỏng ĐTM còn nhiều hạn chế hiện giờ, ĐTM chủ yếu do các cơ quan tham mưu thực hiện ưng chuẩn hiệp đồng ký với chủ đầu tư.
Việt Nam cũng cần nghiên cứu và đưa ra các quy định cụ thể về phí tổn thực hành ĐTM cho hiệp với đề nghị kỹ thuật và tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể ai là đại diện cộng đồng, cũng như người dân có được chọn lọc, cử người đại diện cho tiếng nói của mình hay không. Như vậy, với các quy định hiện tại trong ĐTM, khả năng tiếp cận thông báo cũng như giám sát việc thực hiện bẩm ĐTM của cộng đồng, cơ quan quản lý cấp xã và các tổ chức từng lớp bị hạn chế rất nhiều.
Qua phản ảnh của báo chí cũng như một số nghiên cứu gần đây, nhiều mỏng ĐTM chỉ là “sản phẩm cắt dán” từ báo cáo của các dự án khác cùng loại hình.
Nói cách khác, mục tiêu của ĐTM là xem xét các tác động đối với môi trường trước khi quyết định có nên cho phép khai triển một dự án do nhà đầu tư đề xuất hay không, hoặc nếu cho phép thì cần điều chỉnh gì. Hạn phê duyệt mỏng ĐTM cũng là một nguyên tố ảnh hưởng đến chất lượng giám định các ít ĐTM.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng giờ ở Việt Nam cho thấy ĐTM chưa thực hiện tốt chức năng dự báo của nó. Theo đó, quy trình tham mưu được thực hiện trong vòng 15 ngày làm việc kể từ thời điểm chủ đầu tư gửi văn bản xin quan điểm và tóm lược các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề môi trường, các giải pháp bảo vệ môi trường của dự án tới UBND cấp xã, đại diện cộng đồng nơi chịu tác động trực tiếp của dự án; có quy định về đối thoại giữa chủ đầu tư và đại diện cộng đồng và quan điểm tham mưu được ghi nhận bằng văn bản và phải nộp kèm theo mỏng ĐTM khi giám định.
1 của Thông tư 26/2011/TT-BTNMT quy định chủ đầu tư phải gửi cho UBND cấp xã và đại diện cộng đồng bản tóm tắt các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề môi trường và các giải pháp bảo vệ môi trường của Dự án.
Mặt khác, mặc dù pháp luật cho phép Hội đồng giám định có thể thuê các chuyên gia, các tổ chức xã hội, xã hội – nghề phản biện các nội dung trong ít trong trường hợp cần thiết (khoản 4 Điều 18 Nghị định 29/2011), nhưng với giới hạn về thời kì như trên khiến quy định này trở thành khó khả thi trong thực tiễn.
Chất lượng giám định mỏng ĐTM bị ảnh hưởng bởi nhiều nguyên cớ Theo quy định tại Điều 18 Nghị định 29/2011, các cơ quan có thẩm quyền tổ chức giám định báo cáo ĐTM gồm Bộ TN&MT; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND cấp tỉnh.
Tham mưu cộng đồng có thể coi là một trong những tiến bộ của Luật Bảo vệ Môi trường 2005 (khoản 8 Điều 20) và được cụ thể hóa trong các văn bản chỉ dẫn thực hiện Luật (Điều 14 và Điều 15 Nghị định 29/2011, Điều 12 Thông tư 26/2011/TT-BTNMT).
Chừng độ công khai thông tin không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của thưa, chất lượng thẩm định, chất lượng tham vấn trong quá trình lập ít ĐTM mà còn ảnh hưởng đến việc thực hành và giám sát thực hiện vắng ĐTM đó trong thực tại. Rõ ràng, cứ theo các quy định về lập, giám định và thông qua dự án thì quá trình này được thực hiện sau khi xin chủ trương, thỏa thuận địa điểm thực hiện dự án và quan điểm quy hoạch.
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có cơ chế nào bảo đảm được Mức độ xác thực và đầy đủ của các thông báo do chủ đầu tư cung cấp.
• Cải thiện quá trình tư vấn và thiết lập cơ chế hội thoại giữa cộng đồng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình đánh giá tác động môi trường cũng như trong thời đoạn vận hành dự án.
Trong khi đó, ở nhiều nơi, đại diện được tham mưu là chủ toạ chiến trận đất nước hoặc bí thơ chi bộ. Các bộ ngành khác thẩm định dự án thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
Vấn đề đặt ra làm thế nào để chính quyền và cộng đồng địa phương nơi trực tiếp bị tác động có đủ thông tin, hiểu biết về tác động môi trường của dự án, để từ đó có thể ngừa, giám sát và phối hợp giải quyết khi xảy ra các tác động thụ động hoặc sự cố môi trường, trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống, sinh kế của dân chúng.
• Tăng cường công tác hậu kiểm ĐTM và xây dựng các cơ chế cụ thể hơn cho việc giám sát và xử lý các vi phạm môi trường. ĐTM chưa thực hiện tốt chức năng dự báo ĐTM về thực chất là dụng cụ phân tách, dự báo các tác động môi trường của các đề xuất hành triển nhằm phục vụ cho quá trình ra quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Trong khi đó, báo cáo ĐTM và quyết định duyệt mỏng ĐTM chỉ được gửi cho các cơ quan theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 Nghị định 29/2011, bao gồm Bộ TN&MT; Sở TN&MT nơi thực hiện dự án; UBND cấp tỉnh; UBND cấp huyện, thị xã, TP trực thuộc tỉnh nơi thực hiện dự án và chỉ gửi quyết định duyệt y bẩm ĐTM (không kèm bẩm ĐTM) cho các Bộ quản lý ngành; UBND cấp xã nơi thực hành dự án.
Ngoại giả, các địa phương thường gặp nhiều khó khăn trong việc thành lập hội đồng thẩm định do thiếu các chuyên gia có chuyên môn, kinh nghiệm và năng lực, nhất là đối với các dự án có tác động phức tạp và cần chuyên gia từ nhiều ngành khác nhau.
Bên cạnh đó, nguy cơ những tranh chấp, xung đột môi trường có thể sẽ ngày càng gia tăng do mẫu thuẫn lợi ích giữa các nhóm khác nhau trong tầng lớp.
Với quy trình này, báo cáo ĐTM thường ở tình trạng “gọt chân cho vừa giày”, nhất là khi đề xuất dự án đã được đưa vào trong quy hoạch phát triển của ngành và địa phương. Chừng độ công khai thông báo liên hệ đến ĐTM còn hạn chế mặc dầu Điều 104 Luật Bảo vệ Môi trường 2005 có quy định bẩm ĐTM, quyết định phê duyệt vắng ĐTM và kế hoạch thực hành các yêu cầu của quyết định duyệt y phải được công khai trừ các thông báo thuộc danh mục bí mật quốc gia; song Điều 22 Nghị định 29/2011 chỉ quy định:“chủ dự án có nghĩa vụ lập, phê chuẩn và niêm yết công khai kế hoạch quản lý môi trường tại trụ sở UBND cấp xã nơi thực hiện việc tư vấn cộng đồng” sau khi thưa ĐTM được duyệt.
• Xây dựng các chương trình tăng cường năng lực giám định thưa ĐTM, đặc biệt cho các cán bộ cấp địa phương. Tuy nhiên, một số lỗ hổng khác vẫn chưa được đánh giá đầy đủ và coi xét đưa vào dự luật mới. Hoàng Phượng/trọng tâm Con người và tự nhiên (PanNature) Theo DĐĐT/01/10/2013 Các bài cùng chủ đề: Cần gỡ vướng trong thực thi chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng Thuế các-bon Trung Quốc: chính sách thực hay chiêu bài đối phó? hội thoại chính sách than Việt Nam – Nhật Bản Việt Nam sẽ là thành viên chính thức của MFF Chính sách khí hậu phải dựa trên quyền con người Chính sách luật đất đai can hệ đến nông nghiệp và nông thôn Chính sách mới tạo kẽ hở cho buôn lậu quặng qua biên thuỳ Hàn Quốc chính thức công bố thảm họa tràn dầu Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp: Không một mực phải có tiền Kết luận chính thức: Không có thuốc “tăng phọt”.
Ý kiến, hoài vọng của người dân cũng chỉ mang tính chất tham khảo, nhằm đáp ứng quy định về lớp lang, thủ tục.
Chất lượng của vắng ĐTM vì thế chưa đạt đề nghị và mất đi vị thế là “chỗ dựa” cho cơ quan có thẩm quyền chuẩn y và ra quyết định đối với dự án. Trong bối cảnh Luật BVMT 2005 đang được xem xét sửa đổi, một số bất cập đã được bổ sung trong Dự thảo lần 4 như quy định thực hành thưa ĐTM hai bước: ĐTM sơ bộ và chi tiết; cụ thể hóa quy trình tư vấn trong Luật, tăng thời kì tư vấn từ 15 ngày lên 30 ngày làm việc, quy định trách nhiệm tổ chức tham vấn cho chủ đầu tư.
Tóm lại, quá trình thông báo và tham vấn cộng đồng trong ĐTM hiện thời vẫn nặng về hình thức và thủ tục. Cụ thể, Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật BVMT 2005 và Nghị định 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008 sửa đổi, bổ sung Nghị định 80/2006/NĐ-CP đều không quy định thời khắc phải lập thưa ĐTM mà chỉ quy định thời điểm giám định là trước khi cấp giấy phép hoặc khởi công dự án (khoản 5 Điều 1 Nghị định 21/2008/NĐ-CP).
Cụ thể hơn, theo Phụ lục III, Nghị định 29/2011, Bộ TN&MT tổ chức thẩm định vắng ĐTM đối với một số loại hình dự án mẫn cảm và tiềm tàng nhiều rủi ro. • Tăng cường công khai thông báo liên tưởng đến ĐTM duyệt xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin trực tuyến các báo cáo ĐTM và cam kết bảo vệ môi trường.
Do đó, việc có tổ chức đối thoại hay không là tùy thuộc vào UBND cấp xã xem xét và quyết định. Một đôi đề xuất và kiến nghị: • Quy định về việc lập thưa ĐTM sơ bộ tại thời điểm hình thành ý tưởng dự án.
Nguyễn Khắc Kinh – Nguyên Vụ trưởng Vụ thẩm định và đánh giá tác động môi trường – Bộ TN&MT tại Hội thảo “Hài hòa mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam: thực tại và thách thức chính sách” do trọng điểm Con người và tự nhiên (PanNature) tổ chức ngày 20-21/09/2012. Sự tham dự của cộng đồng trong hội thoại vẫn rất mờ nhạt, chỉ dừng lại ở người đại diện.
Thứ nhất, theo Nghị định 29/2011, chỉ đại diện cộng đồng dân cư nơi chịu tác động trực tiếp của dự án mới được tham mưu ý kiến trong quá trình lập thưa ĐTM (Điều 14). Tuy nhiên, thực tế ứng dụng tham mưu cộng đồng trong thực hiện báo cáo ĐTM vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn bởi nhiều nguyên nhân. Mối quan hệ hiệp đồng kinh tế giữa người đề nghị và người cung cấp dịch vụ trong việc lập báo cáo ĐTM dẫn đến việc cơ quan tham vấn khó có thể đảm bảo tính khách quan trong phản ảnh và đánh giá chân thực bít tất các tác động tiêu cực tiềm tàng của dự án.
Tham khảo ở một số nước như Tây Ban Nha mức phí này nhàng nhàng là 2,5% tổng vốn đầu tư, ở Nauy là từ 0,1-2,2% hay Iceland là từ 0,5-3% tổng vốn đầu tư của dự án (Oosterhuis, 2007).
Đặc biệt nếu các dự án phát triển này đã được đưa vào chủ trương, quy hoạch phát triển ngành, địa phương hoặc được xem là “quyết tâm chính trị” thì cơ quan tham vấn chuẩn y mỏng ĐTM khó có thể không tán đồng. Dưới sức ép của việc canh tân các thủ tục hành chính, vận hạn thẩm định thưa ĐTM theo quy định là 45 ngày và tối đa là 60 ngày làm việc đối với dự án thuộc thẩm quyền của Bộ TN&MT và 30 ngày, không quá 45 ngày đối với dự án không thuộc thẩm quyền của Bộ TN&MT (Điều 20 Nghị định 29/2011).
Nếu không chịu bỏ ra một khoản phí nhất mực và cấp thiết cho công tác ĐTM ở thời đoạn xây dựng dự án để thấy trước những tác động xấu, nhất là các tác động không thể khắc phục và chủ động ngừa, đối phó ngay từ đầu, thì có thể sẽ phải rất tốn kém để khắc phục hậu quả, thậm chí là không thể khắc phục được cho dù có bao lăm tiền của đi chăng nữa!” (TS.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét